Bùng nổ dân số trên thế giới – Tài liệu text
Bùng nổ dân số trên thế giới
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.1 KB, 16 trang )
Bạn đang đọc: Bùng nổ dân số trên thế giới – Tài liệu text
1
Tiểu luận
Bùng nổ dân số trên thế giới
2
MỞ ĐẦU
Ngày nay, khái niệm “con quái vật dân số” hay “quả bom dân số” đã trở lên
không còn xa lạ gì với mỗi chúng ta. Gọi như vậy phần nào đã cho chúng ta một
cái nhìn khái quát nhất về tính nguy hại và cấp thiết, cũng như những áp lực mà
vấn đề dân số gây ra cho chúng ta. Trong vòng bốn thập niên trở lại đây, nhân loại
đã có cái nhìn khác về vấn đề dân số, đã không còn quan niệm “trời sinh voi trời
sinh cỏ” nữa mà thay vào đó, con người đã có cái nhìn nghiêm túc hơn trước thực
trạng diễn biễn ngày càng phức tạp của vấn đề dân số. Trong bài tiểu luận này,
chúng tôi chỉ muốn đề cập tới nguyên nhân và thực trạng của vấn đề bùng nổ dân
số- vấn đề đang làm đau đầu lãnh đạo nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có
Việt Nam- để từ đó làm sang tỏ vấn đề bùng nổ dân số hiện đã vượt ra ngoài biên
giới của một quốc gia, một khu vực và đã trở thành một vấn đề toàn cầu.
Bài tiểu luận của nhóm chúng tôi được chia làm 3 phần
I. Khái niệm và thực trạng của vấn đề bùng nổ dân số
II. Nguyên nhân bùng nổ dân số
III. Tại sao vấn đề dân số lại được coi là vấn đề toàn cầu
3
I. Khái niệm và thực trạng vấn đề bùng nổ dân số trên thế giới
1. Khái niệm
– Dân số là tập hợp những người sinh sống trong cùng một quốc gia, khu
vực, vùng địa lí kinh tế hoặc một đơn vị hành chính.
– Bùng nổ dân số là sự gia tăng dân số quá nhanh trong một thời gian
ngắn,gây ảnh hưởng tiêu cực đến mọi mặt của đời sống xã hội
1
.
Như vậy bản chất của bùng nổ dân số chính là sự tăng lên nhanh chóng một
cách đột biến của số lượng người sinh sống trong phạm vi của một quốc gia, khu
vực, vùng địa lí, hay nói rộng ra đó là sự gia tăng trên phạm vi toàn cầu.
2. Thực trạng vấn đề bùng nổ dân số
Chúng tôi sẽ xem xét vấn đề bùng nổ dân số trên hai cấp độ: cấp độ quốc tế
và cấp độ quốc gia.
a. Cấp độ quốc tế
Dân số phát triển với tốc độ chóng mặt. Xét trong toàn bộ tiến trình lịch sử
xã hội cho đến nay,tỉ lệ phát triển dân số trên phạm vi toàn thế giới ngày càng cao.
Vào những năm công nguyên,dân số thế giới chỉ vào khoảng 250 triệu
người .Cách đó 1.600 năm, dân số thế giới tăng trưởng rất chậm, đến năm 1650
dân số thế giới chỉ tăng gấp đôi con số trên.
Năm 1825,dân số thế giới lên đến 1 tỉ người.
1
Từ điển bách khoa toàn thư
4
Năm 1925 dân số thế giới là 2 tỉ người. 50 năm tiếp theo dân số thề giới
tăng gấp đôi,tức là vào năm 1975 đạt tới 4 tỉ người.
Năm 1987,vào ngày 11 tháng 7,dân số thế giới tròn 5 tỉ người,tức là chỉ cần
12 năm để tăng thêm 1 tỉ người.
1
Dân số thế giới đã vượt qua ngưỡng 6 tỉ người vào cuối thập kỷ XX, đạt
6,616 tỉ người vào năm 2007, với tỷ lệ tăng dân số hằng năm 1,2% (so với 2% của
những năm thập kỷ 60 của thế kỷ XX). Chỉ trong vòng 12 năm, thế giới đã tăng
thêm 1 tỉ dân (từ 1987 – 1999), là giai đoạn ngắn nhất trong lịch sử loài người để
có thêm 1 tỉ dân và 1 tỉ tiếp theo sẽ đạt được sau 13 năm. Theo dự báo, dân số thế
giới sẽ tăng thêm 2,6 tỉ trong vòng 45 năm tới, tức đến năm 2050 dân số thế giới
sẽ đạt 9,1 tỉ người. Như vậy có thể thấy thời gian để dân số thế giới tăng thêm gấp
đôi, cũng như thời gian để Trái Đất đón thêm 1 tỉ công dân mới ngày càng được
rút ngắn một cách nhanh chóng. Người ta tính rằng cứ 6 tháng dân số thế giới lại
tăng thêm bằng số dân của nước Pháp (50 triệu) và cứ sau 10 năm lại có một nước
Trung Quốc ra đời ở những vùng nghèo nàn nhất trên Trái Đất
2
. Đó quả thật là
những con số khủng khiếp.
Tuy nhiên tốc độ tăng dân số ở các khu vực khác nhau trên thế giới là
không giống nhau. Có một nghịch lí là khu vực các nước nghèo và kém phát triển
nhất lại là những khu vực có tốc độ tăng dân số nhanh nhất. Theo điều tra của Cục
Điều tra dân số Mỹ, tốc độ tăng dân số nhanh nhất lại là ở các khu vực nghèo khổ
nhất tại châu Phi, Trung Đông và tiểu lục địa Ấn Độ, nơi trung bình một phụ nữ đẻ
7 con. Trong tương lai gần, tốc độ phát triển dân số nhanh nhất vẫn là khu vực
châu Phi và Nam Á. Trong vòng nửa đầu thế kỉ XXI, dân số châu Phi sẽ tăng
khoảng 2,4- 3 lần, cao hơn tốc độ tăng dân số toàn cầu khoảng 1,7-1,8 lần. Cũng
1
Nguyễn Trần Quế, Những vấn đề toàn cầu hóa ngày nay, tr.71
2
Nguyễn Trần Quế, những vấn đề toàn cầu hóa ngày nay, tr 23
5
như vậy tốc độ tăng dân số ở khu vực Nam Á cũng cao hơn tốc độ tăng dân số
toàn cầu 10-15%.
Chỉ tính riêng trong giai đoạn 2000 – 2005, theo thống kê của Liên hợp
quốc, hằng năm dân số thế giới tăng thêm khoảng 76 triệu người, trong đó 6 nước
có số dân tăng thêm chiếm 45% là Ấn Độ (số dân tăng thêm chiếm 22%), Trung
Quốc (11%), Pa-ki-xtan, Ni-giê-ri-a, Mỹ, Băng-la-đét (mỗi nước 4%). Ngoài ra,
16 nước khác có số dân tăng thêm chiếm 25%, trong đó In-đô-nê-xi-a (số dân tăng
hằng năm 2,7 triệu), Băng-la-đét (2,6 triệu), Bra-xin (2,5 triệu), Ê-ti-ô-pi-a (1,8
triệu), Cộng hòa Công-gô (1,5 triệu), Phi-líp-pin (1,5 triệu), Mê-hi-cô (1,4 triệu),
Ai-cập (1,3 triệu), Áp-ga-ni-xtan (1,2 triệu), Việt Nam (1,1 triệu), Thổ Nhĩ Kỳ (1
triệu), U-gan-đa (0,9 triệu), I-rắc (0,7 triệu), Kê-ni-a (0,7 triệu), Cộng hòa Tan-da-
ni-a (0,7 triệu), Cô-lôm-bi-a (0,7 triệu) và Xu-đăng (0,7 triệu). Trong khi dân số
của nhiều nước, đặc biệt là ở châu Phi và châu Á tiếp tục gia tăng trong vài thập
niên tới, thì ở một số nước phát triển đạt dưới mức sinh thay thế lại có xu thế suy
thoái dân số trong vòng 50 năm (2000 – 2050) như CHLB Nga (số dân giảm 35
triệu), U-crai-na (23 triệu), Nhật (15 triệu), Ba-lan (7 triệu), Ru-ma-ni (5 triệu),
CHLB Đức (4 triệu), Bê-la-rút và Bun-ga-ri (3 triệu)
1
. Như vậy, sức ép dân số đối
với đa số các nước đang phát triển, trong đó có nước ta do số dân tăng thêm hằng
năm còn rất lớn trước đời sống kinh tế, chính trị và xã hội, hạn chế đến khả năng
cải thiện, phát triển và tiềm ẩn nguy cơ tụt hậu.Dân số tăng nhanh nằm ở khu vực
những nước đang phát triển, với hơn 95% sự gia tăng dân số nằm ở khu vực này:
Hiện nay, dân số thế giới đang gia tăng với tỷ lệ trung bình là 1,2%/năm.
Cục điều tra dân số Mỹ dự báo, tốc độ này sẽ giảm xuống còn 0,5% năm 2050.
Khi đó, Ấn Độ sẽ vượt Trung Quốc trở thành nước đông dân nhất thế giới.
b. Cấp độ quốc gia
1
Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam
6
Trong tiến trình toàn cầu hóa hiện nay, có một vấn đề nan giải đó là sự tăng
nhanh dân số ở khu vực các thành phố lớn. Tỷ lệ dân cư tại các thành phố, đặc biệt
là các thành phố lớn ngày càng cao. Năm 1955, dân số đô thị là 872 triệu người
(chiếm 32% dân số toàn cầu), năm 1975 là 1,5 tỉ người (chiếm 38%), năm 1995 là
2,6 tỉ người (chiếm 45%). Theo dự báo của Liên Hợp Quốc, tới năm 2025 số dân
sống ở các đô thị sẽ chiếm 60% dân số toàn cầu. Số thành phố có trên 10 triệu dân
cũng tăng lên nhanh chóng. Nếu như năm 1975 mới chỉ có 5 thành phố như vậy thì
tới năm 1995 đã có 14 thành phố, theo dự đoán thì tới năm 2025 chỉ riêng châu Á
sẽ có tới 20 thành phố trên 10 triệu dân.
1
Khi dân số đô thị toàn cầu bùng nổ (cứ
38 năm lại tăng gấp đôi) các thành phố lớn nhất thế giới ngoại trừ Tokyo sẽ bị tuột
xuống cuối danh sách vào năm 2015 và thay thế chúng là các đô thị nhỏ hơn mà ở
đó đang có sự bùng nổ dân cư, cũng theo dự đoán này, Bombay và New Delhi sẽ
trở thành các thành phố lớn thứ hai và thứ ba trên thế giới thay thế cho Mexico
city và New York hiện nay.
II. Nguyên nhân bùng nổ dân số
Xem thêm: Số người Nhật Bản tại Việt Nam tăng mạnh
Sự chênh lệch lớn về tỷ lệ sinh tử: trong giai đoạnđầu phát triển lịch sử
phát triển của nhân loại, tỷ lệ sinh tương đối cao do nhu cầu duy trì nòi giống và
nhu cầu lực lượng sản xuất phục vụ phát triển xã hội, trong khi đó tỉ lệ tử cũng
tương đối cao do điều kiện sống hạn chế, thiên tai, dịch bệnh nhiều… Do đó, trong
giai đoạn này tỷ lệ sinh và tử tương đối cân bằng. Ngược lại, trong giai đoạn
“bùng nổ dân số” tỷ lệ sinh vẫn tiếp tục được duy trì trong khi đó tỷ lệ tử có xu
hướng giảm do điều kiện sống được nâng cao, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học kỹ thuật, các nhu cầu cơ bản của con người được chú trọng đặc biệt là
trong công tác vệ sinh và y tế dẫn tới tỉ lệ tử giảm xuống. Thêm vào đó, tuổi thọ
của con người được nâng cao dần, năm 1975 tuổi trung bình của dân cư thế giới là
21,9 tuổi, tới năm 2000 là 26,6 tuổi. Quá trình toàn cầu hóa đã mang lại cho các
1
Nguyễn Trọng Chuẩn, Những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu của thế kỉ XXI, tr.195
7
quốc gia kém phát triển khả năng tiếp cận với những tiến bộ khoa học kĩ thuật.
Những căn bệnh trước kia được coi là nan y đã tìm ra phương pháp chữa trị, người
dân đã biết sử dụng rộng rãi các loại thuốc văc-xin, thuốc kháng sinh Mặt khác
khoa học kĩ thuật cũng góp phần làm giảm tỉ lệ tử ở trẻ sơ sinh, mang lại nhiều cơ
hội cho các cặp vợ chồng hiếm muộn… Chính những yếu tố trên đã làm nảy sinh
tình trạng mất cân bằng giữa sinh và tử, dẫn đến tình trạng tăng dân số một cách
chóng mặt.
Nhu cầu về lực lượng sản xuất: ở các quốc gia kém phát triển, những nơi
mà khoa học kỹ thuật chưa mấy phát triển và việc áp dụng khoa học và sản xuất
còn rất hạn chế, lực lượng sản xuất vẫn chỉ mới ở trình độ cơ khí thủ công, sử
dụng lao động cơ bắp, lao động chân tay là chủ yếu, cộng với những nguồn năng
lượng có sẵn trong tự nhiên để sản xuât, trong xã hội như vậy thì dân số càng tăng,
sức lao động càng nhiều, càng đẩy mạnh sức sản xuất xã hội. Do đó mà dân số thế
giới của chúng ta không ngừng tăng lên một cách nhanh chóng, để đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế của từng quốc gia.
Quan niệm lạc hậu: ở một số nước đặc biệt là các nước phương đông
vẫn còn một số quan niệm lạc hậu: sinh nhiều con, tư tưởng trọng nam khinh nữ,
muôn sinh con trai… Điều này có thể thấy rất rõ ở Việt Nam, tại các vùng dân tộc
thiểu số hoặc các vùng nông thôn thường có tư tưởng sinh càng nhiều càng tốt và
nhất thiết phải có con trai, do đó mà ở các vùng này gia đình nào cũng có 3 con trở
lên. Ở các nước này vai trò và địa vị của người phụ nữ vẫn còn rất thấp, phụ nữ
nhiều nơi vẫn chưa được giải phóng hoàn toàn. Ngược lại có thể thấy ở các quốc
gia phát triển phương Tây, nơi mà người phụ nữ khá bình đẳng với nam giới và
tham gia ngày càng nhiều vào lực lượng lao động của xã hội thì tỉ lệ sinh rất thấp,
chính quyền nhiều nước còn phải đề ra các chính sách khuyến khích tăng tỉ lệ sinh.
Ở một số nước nghèo và các nước đang phát triển thì vấn đề tiếp cận, và nhận
thức về dân số còn rất hạn chế, đặc biệt là châu phi và một số nước ở châu Á, kinh
tế nghèo đói, lương thực không đủ ăn chua nói đến vấn đề tiếp cận đến vấn đề giáo
dục dân số và kế hoạch hóa gia đình. Họ thiếu những kiến thức và phương tiện cơ
8
bản về phòng tránh thai. Thậm chí nhiều khi chính các nhà lãnh đạo cũng có nhận
thức chưa đầy đử về vấn đề này, ví dụ cách đây 8 năm thị trưởng thành phố
Mannila đã ra lệnh cấm các trung tâm y tế cung cấp các biện pháp ngừa thai hiện
đại như bao cao su, thuốc tránh thai và triệt sản nhằm mục đích bảo vệ các giá trị
cuộc sống??
III. Tại sao “Bùng nổ dân số” lại là vấn đề toàn cầu
Cũng như mọi vấn đề toàn cầu khác, vấn đề bùng nổ dân số cũng sẽ được
chúng tôi nhìn nhận dưới 3 góc độ là :phạm vi tác động, hậu quả tác động và việc
đòi hỏi sự chung sức của toàn nhân loại.
1. Phạm vi tác động của vấn đề:
Vấn đề bùng nổ dân số có thể được nhìn nhận từ hai góc độ. Trên phạm trù
quốc tế, có một thực tế là hiện nay vấn đề bùng nổ dân số chỉ diễn ra chủ yếu ở các
nước đang phát triển và chậm phát triển, có thể thấy 60% dân số tập trung tại các
nước châu Á và châu Phi, các khu vực còn lại như châu Âu và châu Mỹ dân số chỉ
chiếm 40% dân số thế giới. Điều đáng lo ngại hơn là các khu vực kém phát triển
này tốc độ tăng dân số luôn ở mức cao hơn rất nhiều so với các nước phát triển.
Trong giai đoạn 2000 – 2005, theo thống kê của Liên hợp quốc, hằng năm dân số
thế giới tăng thêm khoảng 76 triệu người, trong đó 6 nước có số dân tăng thêm
chiếm 45% và 16 nước khác có số dân tăng thêm chiếm 25% thì ngoài 4 nước là
Mỹ, Côlômbia, Mêhicô và Braxin ra thì còn lại đều là các quốc gia châu Á và châu
Phi, và ngoài trừ Mỹ, Ấn Độ, Braxin, Trung Quốc ra thì các nước còn lại đều là
các nước đang và kém phát triển. Trong khi đó thì ở một số nước phát triển như
Nga, Nhật hay CHLB Đức đạt dưới mức sinh thay thế lại có xu thế suy thoái dân
số trong vòng 50 năm (2000 – 2050). Như vậy nhìn vào bề mặt của vấn đề có thể
nhiều người sẽ nghĩ vấn đề bùng nổ dân số chỉ là vấn đề của các nước đang phát
9
triển, và quả thật những hậu quả mà vấn đề bùng nổ dân số mang lại cho các nước
này là không phải bàn cãi. Nhưng trong thời đại ngày nay không một vấn đề nào
có thể tách ra riêng lẻ mà nó luôn có liên hệ chặt chẽ với các vấn đề khác. Vân đề
bùng nổ dân số cũng vậy. Có thể có người sẽ suy nghĩ rằng Việt Nam sinh nhiều
thì ảnh hưởng gì tới Mỹ? Đúng là không ảnh hưởng nhiều thật nếu chỉ có Việt
Nam nhưng trên thực tế, ngoài Việt Nam ra còn có rất nhiều các nước thế giới thứ
3 khác cũng đang trong tình trạng như vậy,điều đó sẽ mang lại những ảnh hưởng
không nhỏ tới các quốc gia khác, đặc biệt là các nước phát triển. Một điều tất yếu
là khi dân số trong nước quá đông thì người ta sẽ phải tìm đường sang các nước
khác, chủ yếu là các nước phát triển. Điều mà chúng tôi muốn nói tới là vấn đề
người nhập cư và di dân. Mặc dù trong chiến tranh thế giới II đã từng xuất hiện
một làn sóng di cư ồ ạt từ các nước, các khu vực có chiến sự sang nước Mỹ, nguồn
nhập cư này đã góp phần không nhỏ vào thành công của nước Mỹ sau này, tuy
nhiên vấn đề hiện nay là mặc dù nhiều nước đã thắt chặt chính sách người nhập cư
nhưng số lượng người nhập cư vẫn không giảm, chủ yếu là qua con đường nhập
cư bất hợp pháp. Nhập cư bất hợp pháp sẽ dẫn tới những hậu quả không nhỏ cho
các nước phát triển cả về an ninh và xã hội. Đó là tình trạng tội phạm gia tăng, xã
hội bất ổn, xung đột giữa các nhóm sắc tộc.
Ngoài ra xét trên phạm trù quốc gia, trong từng nước đều đang phải đối mặt
với tình trạng bùng nổ dân số ở khu vực thành thị. Và trong những thành phố có
tốc độ tăng dân số nhanh nhất thì có cả những thành phố rất phát triển như Tokyo
hay New york. Do đó có thể thấy ngay cả trong các quốc gia phát triển nhất vẫn
phải đối mặt với vấn đề bùng nổ dân số trong phạm vi cục bộ.
2. Hậu quả tác động của Bùng nổ dân số
Có thể khẳng định vấn đề này có ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn vong của
nhân loại. Có thể nhiều người sẽ cho rằng việc có nhiều người thì sao có thể khiến
cho nhân loại diệt vong được, bởi nếu nhìn vào giới tự nhiên thì có thể thấy những
10
loài động vật bị tuyệt chủng hoặc đe dọa tuyệt chủng đều là những loài có số
lượng ít ỏi. Phải chăng nếu số lượng người trên Trái Đất càng nhiều thì càng đảm
bảo chắc chắn hơn cho sự tồn tại của nhân loại chứ? Tuy nhiên thực tế không phải
như vậy, các nhà khoa học đã tính toán rằng các tài nguyên trên Trái Đất chỉ có thể
nuôi sống tối đa được khoảng 11 tỉ người mà thôi. Nếu dân số không được kiểm
soát mà vẫn tiếp tục tăng trưởng một cách vô hạn như hiện nay thì viễn cảnh về
một ngày tận thế sẽ không còn là quá xa vời, và nguyên nhân của điều đó chính là
nằm ở chúng ta. Nếu để ý có thể thấy rất nhiều vấn đề toàn cầu khác chính là xuất
phát từ vấn đề bùng nổ dân sô.
a. Dân số và vấn đề nghèo đói, lạc hậu
Ở phương Tây, có tác giả cho rằng: nếu dân số tăng lên 1% thì thu nhập
quốc dân tăng khoảng 4%. Ở nhiều nước kém phát triển thuộc châu Phi, tỉ lệ tăng
dân số hàng năm rất cao lên đến 3%, nếu muốn đảm bảo nhu cầu cho số dân mới
tăng đó thì thu nhập quốc dân bình quân mỗi năm phải tăng khoảng 13%, điều đó
là vô cùng khó khăn ngay cả với một quốc gia phát triển chứ đừng nói là một quốc
gia kém phát triển. Trong phạm vi một quốc gia, việc bùng nổ dân số sẽ khiến cho
mức sống của người dân trong nước bị hạ xuống,mức sống của người dân giảm
dẫn tới các dịch vụ chăm sóc tối thiểu không được đáp ứng, dịch bệnh gia tăng.
Trên phạm vi quốc tế, bùng nổ dân số sẽ dẫn tới sự chênh lệch trong phân phối của
cải giữa các khu vực, khiến cho những nước giàu vẫn cứ giàu, những nước nghèo
vẫn cứ nghèo, mặt bằng chất lượng dân số của thế giới bị kéo tuột xuống.
b. Dân số và vấn đề bệnh tật
Mặc dù chưa có nhà khoa học nào khẳng định được mối liên hệ giữa vấn đề
bùng nổ dân số và bệnh tật, tuy nhiên trên thực tế, tại các quốc gia đang và kém
phát triển, những nước có tốc độ bùng nổ dân số cao nhất thế giới cũng là những
nước mà ở đó vấn đề dịch bệnh đang trở nên rất nghiêm trọng. Có thể lấy ví dụ
11
sau để thấy được điều đó: theo thống kê năm 2000, thế giới có khoảng 40 triệu
người bị nhiễm AIDS, trong đó 90% là ở các nước đang phát triển, chủ yếu là ở
các quốc gia châu Phi (chiếm tới 2/3 số người mắc bệnh).
1
Bùng nổ dân số dẫn tới
điều liện sống nghèo khổ, chiến tranh xung đột triền miên khiến cho các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe cho người dân không được đảm bảo chính là nguyên nhân
chính dẫn tới bệnh tật tràn lan ở châu lục này.
c. Dân số và vấn đề tài nguyên thiếu hụt
Trong xã hội công nghiệp hiện đại, để đảm bảo cho cuộc sống của mỗi
nguời, mỗi năm phải đào lên được 25 loại khoáng sản trong lòng đất. Tài nguyên
dầu lửa, nếu tiếp tục được khai thác với tốc độ như trong thập niên 90 của thế kỉ
trước thì sẽ cạn kiệt đến năm 2016. Tài nguyên than trên thế giới cũng chỉ còn
dùng được 1500 năm nữa, và ước tính 12 loại tài nguyên khác chỉ duy trì đựoc 50
năm nữa là cùng. Trong đó nghiêm trọng nhất là phải kể tới vấn đề thiếu nước
ngọt. Vào đầu thế kỉ XXI, một số vùng Nam Á, Trung Mỹ, nhất là Bắc Phi, Đông
Phi, Tây Phi đã xuất hiện tình trạng thiếu nước ngọt hoàn toàn.
d. Dân số và vấn đề thiếu đất canh tác, lương thực căng thẳng
Với sự tăng trưởng cùa dân số trên toàn thế giới, bình quann ruộng đất canh
tác theo đầu người ngày một giảm đi. Năm 1950 bình quân ruộng đất theo đầu
người trên thế giới là 8,5 mẫu, năm 1960 giảm xuống chỉ còn 7,1 mẫu, năm 1968
là 6,1 mẫu, năm 1974 còn 5,6 mẫu và tới năm 1960 chỉ là 3,9 mẫu. Ruộng đất
canh tác giảm đi tất nhiên không chỉ vì lí do dân số bùng nổ mà còn do nhiều
nguyên nhân khác như quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, tuy nhiên nguyên
nhân dân số tăng lên vẫn là nguyên nhân chủ yếu. Ruộng đất giảm, dân số tăng
nhanh làm cho vấn đề lương thực trên phạm vi toàn cầu ngày càng trở lên căng
thẳng. Đầu năm 2008 vừa qua đã xảy ra cuộc khủng hoảng lương thực lớn và chưa
1
Nguyễn Trọng Chuẩn, những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu của thế kỉ XXI, tr 226-227
12
bao giờ vấn đề an ninh lương thực lại được đặt ra cấp thiết như lúc này. Hiện nay
đại đa số các đang phát triển tại châu Á, châu Phi và Mỹ La-tinh đã phải nhập
lương thực, đó là một minh chứng rõ ràng cho hậu quả của việc bùng nổ dân số tại
các nước này.
e. Dân số và vấn đề ô nhiễm môi trường
Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa đang diễn ra
trên khắp thế giới, sự bùng nổ dân số đã khiến cho tình hình ô nhiễm môi trường
ngày càng trở lên nghiêm trọng. Tại các nước đang phát triển, do sức ép của việc
phát triển kinh tế, cho đến nay vẫn tiếp tục sử dụng sử dụng một cách rộng rãi các
loại thuốc trừ sâu, khai thác đất quá mức…khiến cho sự phá hoại môi trường sinh
thái ngày càng tăng lên.
g. Dân số và vấn đề an ninh, xã hội
Dân số tăng nhanh gây ra nhiều bất ổn trong xã hội, đó là nạn cướp bóc,
khủng bố,…Dễ thấy khi dân số tăng cao, việc kiếm được miếng ăn sẽ ngày càng
trở lên khó khăn hơn, và để đảm bảo sinh tồn cho mình người ta có thể sẵn sàng
làm mọi việc, kể cả phạm tội. Nghiêm trọng hơn, xuất phát từ vấn đề dân số quá
nhiều dẫn tới việc thiếu đất sống, thiếu “không gian sinh tồn” có thể dẫn tới các
cuộc xung đột, chiến tranh giữa các nhóm người, gây nên những hậu quả to lớn.
Có thể thấy vấn đề bùng nổ dân số đối với vấn đề nghèo đói, dịch bệnh, ô
nhiễm môi trường, khan hiếm tài nguyên đều có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp.
Bản thân các vấn đề đó đã là các vấn đề mang tính toàn cầu, có ảnh hưởng tới sự
tôn vong của nhân loại, chính vì vậy, không còn gí nghi ngờ nữa, vấn đề bùng nổ
dân số cũng là một vấn đề có tầm ảnh hưởng sâu sắc, rộng lớn tới tương lai của
nhân loại.
13
3. Bùng nổ dân số là vấn đề mà một quốc gia không thể một mình giải
quyết được
Thực vậy, các nước nghèo là những nước có tốc độ bùng nổ dân số nhiều
nhất nhưng bản thân các nước này vì thiếu các yếu tố về vốn, công nghệ nên
không đủ khả năng thực hiện các chương trình dân số một cách hiệu quả, do đó
nhất thiết phải có sự giúp đỡ, tài trợ của các quốc gia phát triển hơn. Trên thực tế,
từ cuối thế kỉ XX, khi hiện tượng bùng nổ dân số xuất hiện thì cũng là lúc các
nước bắt đầu ngồi lại với nhau để bàn bạc về vấn đề này. Có thể kể đến 3 hội nghị
toàn cầu lớn bàn về vấn đề dân số là hội nghị năm 1974 tại Bucharest, hội nghị
năm 1984 tai Mexico city và hội nghị năm 1994 tại Cairo. Đặc biệt là trong hội
nghị Cairo năm 1994, các nước đã đề ra được một chương trình kế hoạch hành
động 20 năm cho vấn đề dân số, các nước giàu còn còn cam kết sẽ dành 0,7%
GNP để giúp đỡ các nước kém phát triển, lạc hậu trong vấn đề dân số (tuy nhiên
trên thực tế chỉ có vài nước Bắc Âu là thực hiện cam kết này). Ngoài các hội nghị
trên còn phải kể tới hàng loạt các hội nghị cấp khu vực và vai trò của các tổ chức
quốc tế khác mà nổi lên là vai trò của UNFPA-Quỹ dân số Liên Hợp Quốc. Thành
viên của UNFPA là tất cả các nước thành viên Liên Hợp Quốc. Vai trò của
UNFPA là trợ giúp các nước đang phát triển thông qua việc cung cấp các dịch vụ
có chất lượng trong sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình; thúc đẩy việc thực
hiện chiến lược dân số do hội nghị Cairo thông qua năm 1994; thúc đẩy sự hợp tác
và điều phối giữa các tổ chức Liên Hợp Quốc, các tổ chức song phương, các chính
phủ, các tổ chức phi chính phủ và khu vực tư nhân trong việc giải quyết các vấn đề
về dân số và phát triển. Từ khi bắt đầu hoạt động năm 1969 đến nay, tổ chức này
đã cung cấp 5 tỉ USD cho việc viện trợ các nước đang phát triển. Giữa Việt Nam
và UNFPA trong thời qua cũng đã có sự hợp tác khá chặt chẽ và hiệu quả. Những
nỗ lực trên đã chứng tỏ rằng vấn đề bùng nổ dân số đã và đang nhận được ngày
càng nhiều sự quan tâm của cộng đồng quốc tế, do đó có thể khẳng định lại một
lần nữa vấn đề bùng nổ dân số là một vấn đề toàn cầu.
14
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Trọng Chuẩn: Những vấn đề toàn cầu trong hai thập
niên đầu của thế kỉ XXI. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
2. Nguyễn Trần Quế: Những vấn đề toàn cầu hóa hiện nay.
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006.
3. http://www.tapchicongsan.org.vn
4. http://www.vietnamnet.vn
15
Nhóm thực hiện
1. Phạm Ngọc Thắng I33
2. Nguyễn Thu Hằng I33
3. Hoàng Như Yến I33
4. Nguyễn Văn Quý I33
5. Quyền Tú Anh I33
6. Lattaphong Phanmachan K33
7. Pakitkeo Senhom K33
16
I. Khái niệm và tình hình của yếu tố bùng nổ dân sốII. Nguyên nhân bùng nổ dân sốIII. Tại sao yếu tố dân số lại được coi là yếu tố toàn cầuI. Khái niệm và tình hình yếu tố bùng nổ dân số trên thế giới1. Khái niệm – Dân số là tập hợp những người sinh sống trong cùng một vương quốc, khuvực, vùng địa lí kinh tế tài chính hoặc một đơn vị chức năng hành chính. – Bùng nổ dân số là sự ngày càng tăng dân số quá nhanh trong một thời gianngắn, gây tác động ảnh hưởng xấu đi đến mọi mặt của đời sống xã hộiNhư vậy thực chất của bùng nổ dân số chính là sự tăng lên nhanh gọn mộtcách đột biến của số lượng người sinh sống trong khoanh vùng phạm vi của một vương quốc, khuvực, vùng địa lí, hay nói rộng ra đó là sự ngày càng tăng trên khoanh vùng phạm vi toàn thế giới. 2. Thực trạng yếu tố bùng nổ dân sốChúng tôi sẽ xem xét yếu tố bùng nổ dân số trên hai Lever : Lever quốc tếvà Lever vương quốc. a. Cấp độ quốc tếDân số phát triển với vận tốc chóng mặt. Xét trong hàng loạt tiến trình lịch sửxã hội cho đến nay, tỉ lệ phát triển dân số trên khoanh vùng phạm vi toàn quốc tế ngày càng cao. Vào những năm công nguyên, dân số quốc tế chỉ vào lúc 250 triệungười. Cách đó 1.600 năm, dân số quốc tế tăng trưởng rất chậm, đến năm 1650 dân số quốc tế chỉ tăng gấp đôi số lượng trên. Năm 1825, dân số quốc tế lên đến 1 tỉ người. Từ điển bách khoa toàn thưNăm 1925 dân số quốc tế là 2 tỉ người. 50 năm tiếp theo dân số thề giớităng gấp đôi, tức là vào năm 1975 đạt tới 4 tỉ người. Năm 1987, vào ngày 11 tháng 7, dân số quốc tế tròn 5 tỉ người, tức là chỉ cần12 năm để tăng thêm 1 tỉ người. Dân số quốc tế đã vượt qua ngưỡng 6 tỉ người vào cuối thập kỷ XX, đạt6, 616 tỉ người vào năm 2007, với tỷ suất tăng dân số hằng năm 1,2 % ( so với 2 % củanhững năm thập kỷ 60 của thế kỷ XX ). Chỉ trong vòng 12 năm, quốc tế đã tăngthêm 1 tỉ dân ( từ 1987 – 1999 ), là tiến trình ngắn nhất trong lịch sử vẻ vang loài người đểcó thêm 1 tỉ dân và 1 tỉ tiếp theo sẽ đạt được sau 13 năm. Theo dự báo, dân số thếgiới sẽ tăng thêm 2,6 tỉ trong vòng 45 năm tới, tức đến năm 2050 dân số thế giớisẽ đạt 9,1 tỉ người. Như vậy hoàn toàn có thể thấy thời hạn để dân số quốc tế tăng thêm gấpđôi, cũng như thời hạn để Trái Đất đón thêm 1 tỉ công dân mới ngày càng đượcrút ngắn một cách nhanh gọn. Người ta tính rằng cứ 6 tháng dân số quốc tế lạităng thêm bằng số dân của nước Pháp ( 50 triệu ) và cứ sau 10 năm lại có một nướcTrung Quốc sinh ra ở những vùng nghèo nàn nhất trên Trái Đất. Đó quả thật lànhững số lượng kinh khủng. Tuy nhiên vận tốc tăng dân số ở các khu vực khác nhau trên quốc tế làkhông giống nhau. Có một nghịch lí là khu vực các nước nghèo và kém phát triểnnhất lại là những khu vực có vận tốc tăng dân số nhanh nhất. Theo tìm hiểu của CụcĐiều tra dân số Mỹ, vận tốc tăng dân số nhanh nhất lại là ở các khu vực nghèo khổnhất tại châu Phi, Trung Đông và tiểu lục địa Ấn Độ, nơi trung bình một phụ nữ đẻ7 con. Trong tương lai gần, vận tốc phát triển dân số nhanh nhất vẫn là khu vựcchâu Phi và Nam Á. Trong vòng nửa đầu thế kỉ XXI, dân số châu Phi sẽ tăngkhoảng 2,4 – 3 lần, cao hơn vận tốc tăng dân số toàn thế giới khoảng chừng 1,7 – 1,8 lần. CũngNguyễn Trần Quế, Những yếu tố toàn thế giới hóa thời nay, tr. 71N guyễn Trần Quế, những yếu tố toàn thế giới hóa thời nay, tr 23 như vậy vận tốc tăng dân số ở khu vực Nam Á cũng cao hơn vận tốc tăng dân sốtoàn cầu 10-15 %. Chỉ tính riêng trong quá trình 2000 – 2005, theo thống kê của Liên hợpquốc, hằng năm dân số quốc tế tăng thêm khoảng chừng 76 triệu người, trong đó 6 nướccó số dân tăng thêm chiếm 45 % là Ấn Độ ( số dân tăng thêm chiếm 22 % ), TrungQuốc ( 11 % ), Pa-ki-xtan, Ni-giê-ri-a, Mỹ, Băng-la-đét ( mỗi nước 4 % ). Ngoài ra, 16 nước khác có số dân tăng thêm chiếm 25 %, trong đó In-đô-nê-xi-a ( số dân tănghằng năm 2,7 triệu ), Băng-la-đét ( 2,6 triệu ), Bra-xin ( 2,5 triệu ), Ê-ti-ô-pi-a ( 1,8 triệu ), Cộng hòa Công-gô ( 1,5 triệu ), Phi-líp-pin ( 1,5 triệu ), Mê-hi-cô ( 1,4 triệu ), Ai-cập ( 1,3 triệu ), Áp-ga-ni-xtan ( 1,2 triệu ), Nước Ta ( 1,1 triệu ), Thổ Nhĩ Kỳ ( 1 triệu ), U-gan-đa ( 0,9 triệu ), I-rắc ( 0,7 triệu ), Kê-ni-a ( 0,7 triệu ), Cộng hòa Tan-da-ni-a ( 0,7 triệu ), Cô-lôm-bi-a ( 0,7 triệu ) và Xu-đăng ( 0,7 triệu ). Trong khi dân sốcủa nhiều nước, đặc biệt quan trọng là ở châu Phi và châu Á liên tục ngày càng tăng trong vài thậpniên tới, thì ở 1 số ít nước phát triển đạt dưới mức sinh thay thế sửa chữa lại có xu thế suythoái dân số trong vòng 50 năm ( 2000 – 2050 ) như CHLB Nga ( số dân giảm 35 triệu ), U-crai-na ( 23 triệu ), Nhật ( 15 triệu ), Ba-lan ( 7 triệu ), Ru-ma-ni ( 5 triệu ), CHLB Đức ( 4 triệu ), Bê-la-rút và Bun-ga-ri ( 3 triệu ). Như vậy, sức ép dân số đốivới hầu hết các nước đang phát triển, trong đó có nước ta do số dân tăng thêm hằngnăm còn rất lớn trước đời sống kinh tế tài chính, chính trị và xã hội, hạn chế đến khả năngcải thiện, phát triển và tiềm ẩn rủi ro tiềm ẩn tụt hậu. Dân số tăng nhanh nằm ở khu vựcnhững nước đang phát triển, với hơn 95 % sự ngày càng tăng dân số nằm ở khu vực này : Hiện nay, dân số quốc tế đang ngày càng tăng với tỷ suất trung bình là 1,2 % / năm. Cục tìm hiểu dân số Mỹ dự báo, vận tốc này sẽ giảm xuống còn 0,5 % năm 2050. Khi đó, Ấn Độ sẽ vượt Trung Quốc trở thành nước đông dân nhất quốc tế. b. Cấp độ quốc giaBáo điện tử Đảng Cộng Sản Việt NamTrong tiến trình toàn thế giới hóa lúc bấy giờ, có một yếu tố nan giải đó là sự tăngnhanh dân số ở khu vực các thành phố lớn. Tỷ lệ dân cư tại các thành phố, đặc biệtlà các thành phố lớn ngày càng cao. Năm 1955, dân số đô thị là 872 triệu người ( chiếm 32 % dân số toàn thế giới ), năm 1975 là 1,5 tỉ người ( chiếm 38 % ), năm 1995 là2, 6 tỉ người ( chiếm 45 % ). Theo dự báo của Liên Hiệp Quốc, tới năm 2025 số dânsống ở các đô thị sẽ chiếm 60 % dân số toàn thế giới. Số thành phố có trên 10 triệu dâncũng tăng lên nhanh gọn. Nếu như năm 1975 mới chỉ có 5 thành phố như vậy thìtới năm 1995 đã có 14 thành phố, theo Dự kiến thì tới năm 2025 chỉ riêng châu Ásẽ có tới 20 thành phố trên 10 triệu dân. Khi dân số đô thị toàn thế giới bùng nổ ( cứ38 năm lại tăng gấp đôi ) các thành phố lớn nhất quốc tế ngoại trừ Tokyo sẽ bị tuộtxuống cuối list vào năm năm ngoái và thay thế sửa chữa chúng là các đô thị nhỏ hơn mà ởđó đang có sự bùng nổ dân cư, cũng theo Dự kiến này, Bombay và New Delhi sẽtrở thành các thành phố lớn thứ hai và thứ ba trên quốc tế sửa chữa thay thế cho Mexicocity và Thành Phố New York lúc bấy giờ. II. Nguyên nhân bùng nổ dân sốSự chênh lệch lớn về tỷ suất sinh tử : trong giai đoạnđầu phát triển lịch sửphát triển của quả đât, tỷ suất sinh tương đối cao do nhu yếu duy trì nòi giống vànhu cầu lực lượng sản xuất ship hàng phát triển xã hội, trong khi đó tỉ lệ tử cũngtương đối cao do điều kiện kèm theo sống hạn chế, thiên tai, dịch bệnh nhiều … Do đó, tronggiai đoạn này tỷ suất sinh và tử tương đối cân đối. Ngược lại, trong tiến trình “ bùng nổ dân số ” tỷ suất sinh vẫn liên tục được duy trì trong khi đó tỷ suất tử có xuhướng giảm do điều kiện kèm theo sống được nâng cao, cùng với sự phát triển can đảm và mạnh mẽ củakhoa học kỹ thuật, các nhu yếu cơ bản của con người được chú trọng đặc biệt quan trọng làtrong công tác làm việc vệ sinh và y tế dẫn tới tỉ lệ tử giảm xuống. Thêm vào đó, tuổi thọcủa con người được nâng cao dần, năm 1975 tuổi trung bình của dân cư quốc tế là21, 9 tuổi, tới năm 2000 là 26,6 tuổi. Quá trình toàn thế giới hóa đã mang lại cho cácNguyễn Trọng Chuẩn, Những yếu tố toàn thế giới trong hai thập niên đầu của thế kỉ XXI, tr. 195 vương quốc kém phát triển năng lực tiếp cận với những văn minh khoa học kĩ thuật. Những căn bệnh trước kia được coi là nan y đã tìm ra giải pháp chữa trị, ngườidân đã biết sử dụng thoáng rộng các loại thuốc văc-xin, thuốc kháng sinh Mặt kháckhoa học kĩ thuật cũng góp thêm phần làm giảm tỉ lệ tử ở trẻ sơ sinh, mang lại nhiều cơhội cho các cặp vợ chồng hiếm muộn … Chính những yếu tố trên đã làm nảy sinhtình trạng mất cân đối giữa sinh và tử, dẫn đến thực trạng tăng dân số một cáchchóng mặt. Nhu cầu về lực lượng sản xuất : ở các vương quốc kém phát triển, những nơimà khoa học kỹ thuật chưa mấy phát triển và việc vận dụng khoa học và sản xuấtcòn rất hạn chế, lực lượng sản xuất vẫn chỉ mới ở trình độ cơ khí thủ công bằng tay, sửdụng lao động cơ bắp, lao động chân tay là hầu hết, cộng với những nguồn nănglượng có sẵn trong tự nhiên để sản xuât, trong xã hội như vậy thì dân số càng tăng, sức lao động càng nhiều, càng tăng nhanh sức sản xuất xã hội. Do đó mà dân số thếgiới của tất cả chúng ta không ngừng tăng lên một cách nhanh gọn, để phân phối nhucầu phát triển kinh tế tài chính của từng vương quốc. Quan niệm lỗi thời : ở một số ít nước đặc biệt quan trọng là các nước phương đôngvẫn còn 1 số ít ý niệm lỗi thời : sinh nhiều con, tư tưởng trọng nam khinh nữ, muôn sinh con trai … Điều này hoàn toàn có thể thấy rất rõ ở Nước Ta, tại các vùng dân tộcthiểu số hoặc các vùng nông thôn thường có tư tưởng sinh càng nhiều càng tốt vànhất thiết phải có con trai, do đó mà ở các vùng này mái ấm gia đình nào cũng có 3 con trởlên. Ở các nước này vai trò và vị thế của người phụ nữ vẫn còn rất thấp, phụ nữnhiều nơi vẫn chưa được giải phóng trọn vẹn. Ngược lại hoàn toàn có thể thấy ở các quốcgia phát triển phương Tây, nơi mà người phụ nữ khá bình đẳng với phái mạnh vàtham gia ngày càng nhiều vào lực lượng lao động của xã hội thì tỉ lệ sinh rất thấp, chính quyền sở tại nhiều nước còn phải đề ra các chủ trương khuyến khích tăng tỉ lệ sinh. Ở 1 số ít nước nghèo và các nước đang phát triển thì yếu tố tiếp cận, và nhậnthức về dân số còn rất hạn chế, đặc biệt quan trọng là châu phi và một số ít nước ở châu Á, kinhtế nghèo khó, lương thực không đủ ăn chua nói đến yếu tố tiếp cận đến yếu tố giáodục dân số và kế hoạch hóa mái ấm gia đình. Họ thiếu những kỹ năng và kiến thức và phương tiện đi lại cơbản về phòng tránh thai. Thậm chí nhiều khi chính các nhà chỉ huy cũng có nhậnthức chưa đầy đử về yếu tố này, ví dụ cách đây 8 năm thị trưởng thành phốMannila đã ra lệnh cấm các TT y tế phân phối các giải pháp ngừa thai hiệnđại như bao cao su, thuốc tránh thai và triệt sản nhằm mục đích mục tiêu bảo vệ các giá trịcuộc sống ? ? III. Tại sao “ Bùng nổ dân số ” lại là yếu tố toàn cầuCũng như mọi yếu tố toàn thế giới khác, yếu tố bùng nổ dân số cũng sẽ đượcchúng tôi nhìn nhận dưới 3 góc nhìn là : khoanh vùng phạm vi ảnh hưởng tác động, hậu quả ảnh hưởng tác động và việcđòi hỏi sự chung sức của toàn trái đất. 1. Phạm vi ảnh hưởng tác động của yếu tố : Vấn đề bùng nổ dân số hoàn toàn có thể được nhìn nhận từ hai góc nhìn. Trên phạm trùquốc tế, có một thực tiễn là lúc bấy giờ yếu tố bùng nổ dân số chỉ diễn ra đa phần ở cácnước đang phát triển và chậm phát triển, hoàn toàn có thể thấy 60 % dân số tập trung chuyên sâu tại cácnước châu Á và châu Phi, các khu vực còn lại như châu Âu và châu Mỹ dân số chỉchiếm 40 % dân số quốc tế. Điều đáng quan ngại hơn là các khu vực kém phát triểnnày vận tốc tăng dân số luôn ở mức cao hơn rất nhiều so với các nước phát triển. Trong quy trình tiến độ 2000 – 2005, theo thống kê của Liên hợp quốc, hằng năm dân sốthế giới tăng thêm khoảng chừng 76 triệu người, trong đó 6 nước có số dân tăng thêmchiếm 45 % và 16 nước khác có số dân tăng thêm chiếm 25 % thì ngoài 4 nước làMỹ, Côlômbia, Mêhicô và Braxin ra thì còn lại đều là các vương quốc châu Á và châuPhi, và ngoài trừ Mỹ, Ấn Độ, Braxin, Trung Quốc ra thì các nước còn lại đều làcác nước đang và kém phát triển. Trong khi đó thì ở 1 số ít nước phát triển nhưNga, Nhật hay CHLB Đức đạt dưới mức sinh thay thế sửa chữa lại có xu thế suy thoái và khủng hoảng dânsố trong vòng 50 năm ( 2000 – 2050 ). Như vậy nhìn vào mặt phẳng của yếu tố có thểnhiều người sẽ nghĩ yếu tố bùng nổ dân số chỉ là yếu tố của các nước đang pháttriển, và quả thật những hậu quả mà yếu tố bùng nổ dân số mang lại cho các nướcnày là không phải bàn cãi. Nhưng trong thời đại ngày này không một yếu tố nàocó thể tách ra riêng không liên quan gì đến nhau mà nó luôn có liên hệ ngặt nghèo với các yếu tố khác. Vân đềbùng nổ dân số cũng vậy. Có thể có người sẽ tâm lý rằng Việt Nam sinh nhiềuthì tác động ảnh hưởng gì tới Mỹ ? Đúng là không ảnh hưởng tác động nhiều thật nếu chỉ có ViệtNam nhưng trên trong thực tiễn, ngoài Nước Ta ra còn có rất nhiều các nước quốc tế thứ3 khác cũng đang trong thực trạng như vậy, điều đó sẽ mang lại những ảnh hưởngkhông nhỏ tới các vương quốc khác, đặc biệt quan trọng là các nước phát triển. Một điều tất yếulà khi dân số trong nước quá đông thì người ta sẽ phải tìm đường sang các nướckhác, hầu hết là các nước phát triển. Điều mà chúng tôi muốn nói tới là vấn đềngười nhập cư và di dân. Mặc dù trong cuộc chiến tranh quốc tế II đã từng xuất hiệnmột làn sóng di cư ồ ạt từ các nước, các khu vực có chiến sự sang nước Mỹ, nguồnnhập cư này đã góp thêm phần không nhỏ vào thành công xuất sắc của nước Mỹ sau này, tuynhiên yếu tố lúc bấy giờ là mặc dầu nhiều nước đã thắt chặt chủ trương người nhập cưnhưng số lượng người nhập cư vẫn không giảm, đa phần là qua con đường nhậpcư phạm pháp. Nhập cư phạm pháp sẽ dẫn tới những hậu quả không nhỏ chocác nước phát triển cả về bảo mật an ninh và xã hội. Đó là thực trạng tội phạm ngày càng tăng, xãhội không ổn định, xung đột giữa các nhóm sắc tộc. Ngoài ra xét trên phạm trù vương quốc, trong từng nước đều đang phải đối mặtvới thực trạng bùng nổ dân số ở khu vực thành thị. Và trong những thành phố cótốc độ tăng dân số nhanh nhất thì có cả những thành phố rất phát triển như Tokyohay New york. Do đó hoàn toàn có thể thấy ngay cả trong các vương quốc phát triển nhất vẫnphải đương đầu với yếu tố bùng nổ dân số trong khoanh vùng phạm vi cục bộ. 2. Hậu quả tác động ảnh hưởng của Bùng nổ dân sốCó thể chứng minh và khẳng định yếu tố này có ảnh hưởng tác động không nhỏ đến sự tồn vong củanhân loại. Có thể nhiều người sẽ cho rằng việc có nhiều người thì sao hoàn toàn có thể khiếncho trái đất diệt vong được, bởi nếu nhìn vào giới tự nhiên thì hoàn toàn có thể thấy những10loài động vật hoang dã bị tuyệt chủng hoặc rình rập đe dọa tuyệt chủng đều là những loài có sốlượng rất ít. Phải chăng nếu số lượng người trên Trái Đất càng nhiều thì càng đảmbảo chắc như đinh hơn cho sự sống sót của quả đât chứ ? Tuy nhiên thực tiễn không phảinhư vậy, các nhà khoa học đã thống kê giám sát rằng các tài nguyên trên Trái Đất chỉ có thểnuôi sống tối đa được khoảng chừng 11 tỉ người mà thôi. Nếu dân số không được kiểmsoát mà vẫn liên tục tăng trưởng một cách vô hạn như lúc bấy giờ thì viễn cảnh vềmột ngày tận thế sẽ không còn là quá xa vời, và nguyên nhân của điều đó chính lànằm ở tất cả chúng ta. Nếu chú ý hoàn toàn có thể thấy rất nhiều yếu tố toàn thế giới khác chính là xuấtphát từ yếu tố bùng nổ dân sô. a. Dân số và yếu tố nghèo nàn, lạc hậuỞ phương Tây, có tác giả cho rằng : nếu dân số tăng lên 1 % thì thu nhậpquốc dân tăng khoảng chừng 4 %. Ở nhiều nước kém phát triển thuộc châu Phi, tỉ lệ tăngdân số hàng năm rất cao lên đến 3 %, nếu muốn bảo vệ nhu yếu cho số dân mớităng đó thì thu nhập quốc dân trung bình mỗi năm phải tăng khoảng chừng 13 %, điều đólà vô cùng khó khăn vất vả ngay cả với một vương quốc phát triển chứ đừng nói là một quốcgia kém phát triển. Trong khoanh vùng phạm vi một vương quốc, việc bùng nổ dân số sẽ khiến chomức sống của dân cư trong nước bị hạ xuống, mức sống của người dân giảmdẫn tới các dịch vụ chăm nom tối thiểu không được cung ứng, dịch bệnh ngày càng tăng. Trên khoanh vùng phạm vi quốc tế, bùng nổ dân số sẽ dẫn tới sự chênh lệch trong phân phối củacải giữa các khu vực, khiến cho những nước giàu vẫn cứ giàu, những nước nghèovẫn cứ nghèo, mặt phẳng chất lượng dân số của quốc tế bị kéo tuột xuống. b. Dân số và yếu tố bệnh tậtMặc dù chưa có nhà khoa học nào chứng minh và khẳng định được mối liên hệ giữa vấn đềbùng nổ dân số và bệnh tật, tuy nhiên trên thực tiễn, tại các vương quốc đang và kémphát triển, những nước có vận tốc bùng nổ dân số cao nhất quốc tế cũng là nhữngnước mà ở đó yếu tố dịch bệnh đang trở nên rất nghiêm trọng. Có thể lấy ví dụ11sau để thấy được điều đó : theo thống kê năm 2000, quốc tế có khoảng chừng 40 triệungười bị nhiễm AIDS, trong đó 90 % là ở các nước đang phát triển, đa phần là ởcác vương quốc châu Phi ( chiếm tới 2/3 số người mắc bệnh ). Bùng nổ dân số dẫn tớiđiều liện sống nghèo khó, cuộc chiến tranh xung đột triền miên khiến cho các dịch vụchăm sóc sức khỏe thể chất cho dân cư không được bảo vệ chính là nguyên nhânchính dẫn tới bệnh tật tràn ngập ở lục địa này. c. Dân số và yếu tố tài nguyên thiếu hụtTrong xã hội công nghiệp văn minh, để bảo vệ cho đời sống của mỗinguời, mỗi năm phải đào lên được 25 loại tài nguyên trong lòng đất. Tài nguyêndầu lửa, nếu liên tục được khai thác với vận tốc như trong thập niên 90 của thế kỉtrước thì sẽ hết sạch đến năm năm nay. Tài nguyên than trên quốc tế cũng chỉ còndùng được 1500 năm nữa, và ước tính 12 loại tài nguyên khác chỉ duy trì đựoc 50 năm nữa là cùng. Trong đó nghiêm trọng nhất là phải kể tới yếu tố thiếu nướcngọt. Vào đầu thế kỉ XXI, một số ít vùng Nam Á, Trung Mỹ, nhất là Bắc Phi, ĐôngPhi, Tây Phi đã Open thực trạng thiếu nước ngọt trọn vẹn. d. Dân số và yếu tố thiếu đất canh tác, lương thực căng thẳngVới sự tăng trưởng cùa dân số trên toàn quốc tế, bình quann ruộng đất canhtác theo đầu người ngày một giảm đi. Năm 1950 trung bình ruộng đất theo đầungười trên quốc tế là 8,5 mẫu, năm 1960 giảm xuống chỉ còn 7,1 mẫu, năm 1968 là 6,1 mẫu, năm 1974 còn 5,6 mẫu và tới năm 1960 chỉ là 3,9 mẫu. Ruộng đấtcanh tác giảm đi tất yếu không chỉ vì lí do dân số bùng nổ mà còn do nhiềunguyên nhân khác như quy trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, tuy nhiên nguyênnhân dân số tăng lên vẫn là nguyên nhân hầu hết. Ruộng đất giảm, dân số tăngnhanh làm cho yếu tố lương thực trên khoanh vùng phạm vi toàn thế giới ngày càng trở lên căngthẳng. Đầu năm 2008 vừa mới qua đã xảy ra cuộc khủng hoảng cục bộ lương thực lớn và chưaNguyễn Trọng Chuẩn, những yếu tố toàn thế giới trong hai thập niên đầu của thế kỉ XXI, tr 226 – 22712 khi nào yếu tố bảo mật an ninh lương thực lại được đặt ra cấp thiết như lúc này. Hiện nayđại đa phần các đang phát triển tại châu Á, châu Phi và Mỹ La-tinh đã phải nhậplương thực, đó là một vật chứng rõ ràng cho hậu quả của việc bùng nổ dân số tạicác nước này. e. Dân số và yếu tố ô nhiễm môi trườngCùng với quy trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa đang diễn ratrên khắp quốc tế, sự bùng nổ dân số đã khiến cho tình hình ô nhiễm môi trườngngày càng trở lên nghiêm trọng. Tại các nước đang phát triển, do sức ép của việcphát triển kinh tế tài chính, cho đến nay vẫn liên tục sử dụng sử dụng một cách thoáng đãng cácloại thuốc trừ sâu, khai thác đất quá mức … khiến cho sự phá hoại thiên nhiên và môi trường sinhthái ngày càng tăng lên. g. Dân số và yếu tố bảo mật an ninh, xã hộiDân số tăng nhanh gây ra nhiều không ổn định trong xã hội, đó là nạn cướp bóc, khủng bố, … Dễ thấy khi dân số tăng cao, việc kiếm được miếng ăn sẽ ngày càngtrở lên khó khăn vất vả hơn, và để bảo vệ sống sót cho mình người ta hoàn toàn có thể sẵn sànglàm mọi việc, kể cả phạm tội. Nghiêm trọng hơn, xuất phát từ yếu tố dân số quánhiều dẫn tới việc thiếu đất sống, thiếu “ khoảng trống sống sót ” hoàn toàn có thể dẫn tới cáccuộc xung đột, cuộc chiến tranh giữa các nhóm người, gây nên những hậu quả to lớn. Có thể thấy yếu tố bùng nổ dân số so với yếu tố bần hàn, dịch bệnh, ônhiễm thiên nhiên và môi trường, khan hiếm tài nguyên đều có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp. Bản thân các yếu tố đó đã là các yếu tố mang tính toàn thế giới, có tác động ảnh hưởng tới sựtôn vong của trái đất, chính vì thế, không còn gí hoài nghi nữa, yếu tố bùng nổdân số cũng là một yếu tố có tầm ảnh hưởng tác động thâm thúy, to lớn tới tương lai củanhân loại. 133. Bùng nổ dân số là yếu tố mà một vương quốc không hề một mình giảiquyết đượcThực vậy, các nước nghèo là những nước có vận tốc bùng nổ dân số nhiềunhất nhưng bản thân các nước này vì thiếu các yếu tố về vốn, công nghệ tiên tiến nênkhông đủ năng lực thực thi các chương trình dân số một cách hiệu suất cao, do đónhất thiết phải có sự giúp sức, hỗ trợ vốn của các vương quốc phát triển hơn. Trên trong thực tiễn, từ cuối thế kỉ XX, khi hiện tượng kỳ lạ bùng nổ dân số Open thì cũng là lúc cácnước mở màn ngồi lại với nhau để tranh luận về yếu tố này. Có thể kể đến 3 hội nghịtoàn cầu lớn bàn về yếu tố dân số là hội nghị năm 1974 tại Bucharest, hội nghịnăm 1984 tai Mexico city và hội nghị năm 1994 tại Cairo. Đặc biệt là trong hộinghị Cairo năm 1994, các nước đã đề ra được một chương trình kế hoạch hànhđộng 20 năm cho yếu tố dân số, các nước giàu còn còn cam kết sẽ dành 0,7 % GNP để giúp sức các nước kém phát triển, lỗi thời trong yếu tố dân số ( tuy nhiêntrên thực tiễn chỉ có vài nước Bắc Âu là thực thi cam kết này ). Ngoài các hội nghịtrên còn phải kể tới hàng loạt các hội nghị cấp khu vực và vai trò của các tổ chứcquốc tế khác mà nổi lên là vai trò của UNFPA-Quỹ dân số Liên Hiệp Quốc. Thànhviên của UNFPA là toàn bộ các nước thành viên Liên Hiệp Quốc. Vai trò củaUNFPA là trợ giúp các nước đang phát triển trải qua việc phân phối các dịch vụcó chất lượng trong sức khỏe thể chất sinh sản và kế hoạch hóa mái ấm gia đình ; thôi thúc việc thựchiện kế hoạch dân số do hội nghị Cairo trải qua năm 1994 ; thôi thúc sự hợp tácvà điều phối giữa các tổ chức triển khai Liên Hiệp Quốc, các tổ chức triển khai song phương, các chínhphủ, các tổ chức triển khai phi chính phủ và khu vực tư nhân trong việc xử lý các vấn đềvề dân số và phát triển. Từ khi mở màn hoạt động giải trí năm 1969 đến nay, tổ chức triển khai nàyđã cung ứng 5 tỉ USD cho việc viện trợ các nước đang phát triển. Giữa Việt Namvà UNFPA trong thời qua cũng đã có sự hợp tác khá ngặt nghèo và hiệu suất cao. Nhữngnỗ lực trên đã chứng tỏ rằng yếu tố bùng nổ dân số đã và đang nhận được ngàycàng nhiều sự chăm sóc của hội đồng quốc tế, do đó hoàn toàn có thể khẳng định chắc chắn lại mộtlần nữa yếu tố bùng nổ dân số là một yếu tố toàn thế giới. 14D anh mục tài liệu tham khảo1. Nguyễn Trọng Chuẩn : Những yếu tố toàn thế giới trong hai thậpniên đầu của thế kỉ XXI. NXB Chính trị vương quốc, TP. Hà Nội, 2006.2. Nguyễn Trần Quế : Những yếu tố toàn thế giới hóa lúc bấy giờ. NXB Khoa học xã hội, Thành Phố Hà Nội, 2006.3. http://www.tapchicongsan.org.vn4. http://www.vietnamnet.vn15Nhóm thực hiện1. Phạm Ngọc Thắng I332. Nguyễn Thu Hằng I333. Hoàng Như Yến I334. Nguyễn Văn Quý I335. Quyền Tú Anh I336. Lattaphong Phanmachan K337. Pakitkeo Senhom K3316
Source: https://mix166.vn
Category: Cộng Đồng