Hiệu quả của Pháp lệnh dân số ở huyện Triệu Phong
Triệu Phong là huyện thuần nông có diện tích trên 3.600 ha. Tổng dân số thường trú trên địa bàn huyện trên 104 nghìn người. Dân cư phân bố khá đồng đều trên địa bàn 19 xã, thị trấn, trong đó, dân số vùng biển, vùng gò đồi chiếm tỷ lệ khoảng 40%. Sau 10 năm Pháp lệnh dân số đi vào thực tế cuộc sống, đến nay, bức tranh dân số của huyện Triệu Phong đã có nhiều nét chuyển biến tích cực; nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về chính sách dân số – KHHGĐ được nâng lên rõ rệt, trở thành nhân tố quyết định sự phát triển bền vững kinh tế – xã hội của địa phương.
Pháp lệnh Dân số được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ( khoá XI) thông qua ngày 09/01/2003 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/5/2003. Đây trở thành văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất trong lĩnh vực dân số. Ngay khi Pháp lệnh dân số có hiệu lực, cùng với nhiều địa phương khác trong toàn tỉnh, huyện Triệu Phong hết sức chú trọng đến công tác tuyên truyền phổ biến các nội dung của Pháp lệnh đến từng cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Huyện đã phối hợp với các ban ngành, tổ chức 23 lớp học tập, triển khai các nội dung của Pháp lệnh dân số cho trên 1300 cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, chú trọng tổ chức lồng ghép các nội dung của Pháp lệnh dân số vào các cuộc họp ở thôn, khu dân cư nhằm tuyên truyền phổ biến sâu rộng đến từng người dân. Bên cạnh đó, để cụ thể hoá các chính sách về dân số, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của địa phương, huyện Triệu Phong đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo về dân số như: Công tác dân số, gia đình và trẻ em trong thời kỳ công nghiệp hoá – hiện đại hoá; Đề án xây dựng làng không có người sinh con thứ 3 trở lên; chiến lược Dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011 – 2015… Nhờ vậy, công tác dân số từ huyện đến cơ sở được kiện toàn và hoạt động có hiệu quả. Qua đó, đã góp phần giúp người dân nhận thức sâu hơn về tầm quan trọng công tác dân số của Đảng và Nhà nước, các ban ngành đoàn thể, cấp ủy Đảng và chính quyền các địa phương nêu cao trách nhiệm của mình trong việc thực hiện công tác dân số, KHHGĐ giai đoạn hiện nay.
Nhờ thực thi đồng nhất và có hiệu suất cao những chủ trương dân số của Trung ương và địa phương, công tác làm việc Dân số – KHHGĐ của huyện Triệu Phong trong thời hạn qua đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cơ cấu dân số không thay đổi, tỷ suất giới tính được cân đối ; Quy mô dân số của huyện không thay đổi ở mức hài hòa và hợp lý, năm 2003 có 21.954 hộ với 10.6831 khẩu, đến nay có 23.492 hộ và 103.535 khẩu. Tỷ suất sinh năm 2003 là 14,73 % o đến năm 2013, tỷ suất sinh đạt 11,6 % o, trung bình mỗi năm giảm 0,31 % o. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2003 là 10,32 % đến năm 2013, giảm xuống còn 0,61 %. Từ năm 2003 – 2013 toàn huyện đã có 62 làng phát động kiến thiết xây dựng làng không có người sinh con thứ 3 trở lên, trong đó có 09 làng giữ vững được trào lưu 3 năm, và 1 làng 5 năm liền không có người sinh con thứ 3 trở lên. Mô hình này đã thực sự mang lại hiệu suất cao, góp thêm phần tăng trưởng kinh tế tài chính, nâng cao đời sống nhân dân trên địa phận huyện. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên năm 2003 là 36 %, năm 2013 giảm xuống còn 23,5 %.
Bạn đang đọc: Hiệu quả của Pháp lệnh dân số ở huyện Triệu Phong
Truyền thông công tác làm việc dân số
Thực hiện chính sách dân số là một trong những yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của cá nhân, gia đình và toàn xã hội. Trong những năm qua, huyện Triệu Phong đã phát động và thường xuyên duy trì phong trào rèn luyện thân thể, bảo vệ sức khoẻ, giữ gìn vệ sinh và cải thiện môi trường sống tại cộng đồng; chỉ đạo các ngành liên quan tăng cường các hoạt động chương trình nâng cao chất lượng dân số tại cộng đồng như: Mô hình “Tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân”, Đề án “Sàng lọc trước sinh và sơ sinh” ; đẩy mạnh phòng, chống HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội. Công tác chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho phụ nữ mang thai được quan tâm, tỷ lệ tiêm phòng uốn ván cho phụ nữ mang thai đạt 100 %.
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình triển khai Pháp lệnh dân số, đặc biệt khi chưa có Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh dân số năm 2009, vẫn còn tồn tại một số khó khăn. Một bộ phận nhân dân trong đó có cả cán bộ, Đảng viên còn chưa hiểu đúng hoặc hiểu chưa đầy đủ về Pháp lệnh dân số và Nghị định 104 của Chính phủ mà chỉ tập trung ở Điều 10 của pháp lệnh. Việc quyết định thời gian sinh con, số con của các cặp vợ chồng họ hiểu theo nghĩa là Nhà nước không hạn chế sinh đẻ, việc sinh con thứ 3 kể từ đây không vi phạm chính sách dân số. Do vậy, những gia đình khá giả, những cặp cợ chồng sinh con một bề là gái, họ đều có ý định muốn sinh thêm con. Một bộ phận người dân chỉ chú ý đến quyền của công dân và các cặp vợ chồng chưa gắn với nghĩa vụ được quy định trong Pháp lệnh dân số.
Pháp lệnh dân số sinh ra đã phân phối được những tiềm năng, nâng cao nhận thức của nhân dân cũng như bảo vệ quyền và quyền lợi hợp pháp của dân cư, tăng cường và thống nhất vai trò quản trị của nhà nước về dân số. Có thể khẳng định chắc chắn rằng, chủ trương dân số của TW và địa phương đã được tiến hành kịp thời, sâu rộng và vận dụng có hiệu suất cao. Chính sách về dân số đã được cụ thể hóa tương thích với đặc thù của địa phương ; kiến thiết xây dựng chính sách chủ trương kêu gọi nhân lực, kinh tế tài chính để thực thi công tác làm việc dân số ; lồng ghép những yếu tố dân số vào quy hoạch, kế hoạch tăng trưởng kinh tế tài chính xã hội của địa phương. Với những tác dụng đạt được, năm 2011, Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Trị Tặng Ngay bằng khen và 70 triệu đồng / làng cho 03 làng Phước Lễ, xã Triệu Phước ; làng Thanh Lê ; Làng Mỹ Khê, xã Triệu Trung vì đã có thành tích nhiều năm liền giữ vững thương hiệu làng không sinh con thứ 3. Ngành dân số Huyện cũng đã nhận được nhiều Bằng khen, Giấy khen của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh, Sở Y tế, Chi cục Dân số – KHHGĐ tỉnh, và Tổng cục dân số trao tặng qua nhiều năm.
Cảnh Thu – Kim Thoa
Source: https://mix166.vn
Category: Cộng Đồng